Mời các bạn xem bộ ảnh 100 tấm chụp Hà Nội ngày Tết vào thập niên 1920, tức là khoảng 100 năm trước.
Bộ ảnh lột tả rõ nét văn hóa ăn Tết của người Việt (cụ thể là người Hà Nội) từ ngàn xưa với những cành đào, câu đối, chậu thủy tiên, tranh tứ bình, cây nêu,… Tất cả những nét văn hóa đó có thứ còn, có thứ đã không còn hiện diện trong những ngày Tết của thời hiện đại nhưng tất cả chưa từng mất đi trong tâm trí, trong ký ức của rất nhiều những thế hệ người Việt, trong những câu chuyện kể và đặc biệt trong bộ ảnh đặc biệt quý giá này.
Với mỗi gia đình người Việt từ xưa đến nay, khu vực ban thờ gia tiên luôn là phần được quan tâm nhất, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ. Bàn thờ lúc nào cũng phải được đặt ở gian giữa, khu vực trang trọng và sạch sẽ nhất trong nhà.
Vào những ngày Lễ Tết, khu vực ban thờ càng phải trang hoàng kĩ lưỡng hơn, với các loài hoa trái tươi tắn và ngon đẹp nhất, những món đồ phong thủy, bình phong, câu đối,… cũng được sửa soạn, trang hoàng để cầu cho một năm mới an khang, nhiều may mắn sẽ đến với gia đình.
Cây nêu là hình ảnh quen thuộc trong những ngày Tết xưa. Ngày nay, việc dựng cây nêu trước nhà trong những ngày Tết không còn phổ biến nhưng phong tục này vẫn còn xuất hiện rải rác trong nhiều gia đình ở nhiều nơi, đặt biệt là ở khu vực phía Bắc.
Thông thường, cây nêu được chuẩn bị vào lúc chiều tối của ngày 30 Tết (thường tầm 7-8 giờ tối). Người ta sẽ chặt lấy một cây tre (hoặc tầm vông) cao khoảng 5-7m, có ngọn hơi rủ xuống, đem róc những cành lá phía dưới chỉ chừa lại phần ngọn rủ; rồi lấy một lá bùa bát quái, cùng một chiếc giỏ nhỏ đựng lá vàng bạc, vôi và trầu cau buộc lên phần sát ngọn. Một số nơi sẽ buộc thêm những chiếc khánh nhỏ hoặc đèn lồng.
Tập tục này xuất hiện dựa theo những quan niệm duy tâm của người xưa rằng: Trên thế gian, mỗi nơi chốn đều có một vị thần trấn nhậm trị yêu quỷ. Tuy nhiên, từ chiều 30 Tết, các chư thần đều bận về chầu trời nên không có ai trị yêu. Ma quỷ nhân dịp này sẽ đi phá phách làng xóm. Và cây nêu được dựng nên với mục đích để trừ ta ma yêu quỷ phá phách, cầu bình an và dẫn đường cho ông bà tổ tiên trở về ăn Tết với con cháu.
Người Việt ngày nay vẫn truyền tụng câu nói của ông bà từ ngàn xưa: “Mùng 1 Tết cha, mùng 2 Tết mẹ, mùng 3 Tết thầy”. Đây là câu nói vắn tắt thể hiện tầng bậc lễ nghĩa trong văn hóa chúc tụng ngày Tết của người Việt, đồng thời khẳng định 3 thứ lễ quan trọng nhất mà mỗi người đều cần phải thực hiện trong những ngày lễ Tết là cha mẹ, nội ngoại và những người Thầy. Có thể nói, văn hóa chúc tụng, lễ lạt là thứ văn hóa quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong mỗi gia đình người Việt trong 3 ngày Tết chính.
–
–
–
Từ xa xưa, người Việt đã có truyền thống đốt pháo vào mỗi dịp Tết, đặc biệt là trong đêm giao thừa và sáng mùng một Tết. Nguồn gốc ban đầu của tập tục này là do người ta tin rằng tiếng pháo có thể làm ma quỷ sợ hãi mà bỏ trốn, gia đình nhờ đó sẽ được ăn Tết yên ấm.
–
Cho đến ngày nay, nhiều người Việt vẫn hoài niệm về những cái Tết rộn ràng tiếng pháo, với xác pháo nhuộm đỏ sân nhà và cái mùi khét khét thân thuộc của thuốc pháo tràn ngập trong không khí mùa Xuân.
Từ hàng trăm năm trước, khi máy ảnh được người Pháp mang đến Đông Dương, các gia đình giàu có bắt đầu hình thành thói quen chụp ảnh gia đình ngày Tết.
–
Ngày Tết là dịp tốt nhất để có những bức ảnh gia đình sum họp đông đủ và đẹp nhất. Ai cũng quần là áo lượt còn nhà cửa thì được trang hoàng đẹp đẽ.
Nhắc đến Tết, không thể không nhắc đến đình, đền, chùa chiền,… Người Việt từ xưa tới nay, ngoài thời gian đi chúc tụng bà con, họ hàng, bạn bè luôn dành một phần thời gian trong những ngày đầu năm mới để đến những nơi chốn tâm linh vừa để vãn cảnh, vừa để cầu nguyện cho một năm mới tròn đầy, may mắn.
–
–
–
Dù là từ hàng trăm năm trước thì Tết vẫn là thời điểm người Việt tiêu pha, mua sắm nhiều nhất. Và dĩ nhiên, nơi nhộn nhịp, ồn ào nhất trong những ngày giáp Tết chính là những khu chợ. Dù giàu dù nghèo, mỗi gia đình Việt đều luôn cố gắng sắm sửa, trang hoàng, để các thành viên trong gia đình đều được hưởng một cái Tết ấm no đầy đủ nhất.
–
–
–
Nhắc đến Tết Hà Nội, nhất định phải kể đến chợ Đồng Xuân. Khu chợ nổi tiếng và sầm uất bậc nhất xứ Hà Thành xưa:
–
–
–
–
–
Ngày Tết ở Hà Nội nói riêng và ở vùng phía Bắc nói chung, không thể thiếu hoa đào, cũng giống như ở miền Nam không thể thiếu một nhành mai. Hoa đào không chỉ là loài hoa đặc trưng của mùa xuân miền Bắc mà còn mang ý nghĩa về sự tươi mới, sinh sôi nảy nở báo hiệu một năm may mắn, tài lộc thịnh vượng.
Năm 1936, nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết một bài thơ nổi tiếng về nghề “viết chữ, câu đối” của những ông đồ trong mỗi dịp Tết với những câu thơ vô cùng xúc động:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Ngay từ thời điểm bài thơ ra đời, nghề “ông đồ” với những câu đối đỏ đã trở thành ký ức vàng son trong tâm tưởng của những người hoài cổ. Bởi thời điểm này, chữ nho hầu như đã mất chỗ đứng, không còn được trọng dụng; hệ thống thi cử cũ cũng bị bãi bỏ. Những câu đối đỏ bằng chữ nho đã không còn được ưa chuộng.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Nhưng ở thập niên 1920, thầy đồ vẫn còn rất được trọng dụng. Và ngày Tết nhất định không thể thiếu những câu đối đỏ chữ Hán mực Tàu treo trong nhà. Có thể nói đây là những hình ảnh cuối cùng của thời cực thịnh của ông đồ.
Tết nhất cũng là dịp “ăn nên làm ra” của những sạp hàng vàng mã. Thứ vật phẩm tâm linh không thể thiếu trong văn hóa cúng bái của người Việt từ xưa tới nay.
Có thể thấy, ngay từ thập niên 1920, những vật phẩm vàng mã đã rất phong phú, đa dạng.
Văn hóa Tết của người Việt, ngoài phần Lễ nhất mực quan trọng còn có phần Hội vô cùng phong phú, thể hiện qua các trò chơi dân gian, những lễ hội chỉ xuất hiện duy nhất trong những ngày đầu năm.
Một số hình ảnh khác:
–
–
–
–
–
–
–
–
Bài: Đông Kha – chuyenxua.net
Ảnh: manhhai flickr
Tranh quý. Nhưng tranh toàn các gia đình giàu có. Giá có tranh của người nghèo nữa thì đầy đủ hơn. Các cụ ngày xưa quả là thanh lịch. Cảm ơn WEB.