Tân Sơn Nhất là sân bay đầu tiên trên toàn cõi Việt Nam, được người Pháp xây dựng vào thập niên 1920 tại làng Tân Sơn Nhứt ở quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định hồi ấy. Vì sân bay được xây trên phần lớn diện tích của làng Tân Sơn Nhứt, nên tên chính thức của sân này từ năm 1930 đến 1975 là “Phi cảng Tân Sơn Nhứt”. Sau 1975, không rõ cụ thể thời điểm nào, địa điểm này đổi tên lại thành “Sân bay Tân Sơn Nhất”. Tuy nhiên cho tới tận đầu thập niên 1980, tấm bảng hiệu ghi tên sân bay vẫn là Tân Sơn Nhứt (hình bên dưới), rồi sau đó mới đổi lại hoàn toàn thành Tân Sơn Nhất như hiện nay.
Vậy Nhứt hay Nhất, tên nào là đúng?
Trước hết, tìm hiểu khái niệm của chữ Nhất, có nghĩ là đứng đầu, số 1. Người Việt xưa sử dụng cả 2 chữ Nhứt và Nhất, tùy theo địa phương, vùng miền, và cả 2 chữ này đều mang cùng ý nghĩa. Điều đó được thể hiện qua từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, cuốn từ điển đã được soạn từ cuối thế kỷ 19. Sau đây là khái niệm 2 chữ Nhất và Nhứt có trong cùng cuốn từ điển này:
Như vậy, Nhứt và Nhất đều đúng, nhưng có lẽ chữ Nhứt được người miền Nam xưa sử dụng, còn ở miền Bắc xài chữ Nhất.
Vì vậy, phi cảng Tân Sơn Nhứt là ở miền Nam từ 100 năm trước, nên tên gọi ban đầu là Tân Sơn Nhứt, chứ không phải là Tân Sơn Nhất. Tên gọi chính thức và tên ghi trên các bảng hiệu đều như vậy.
Vậy tên gọi Tân Sơn Nhất có từ khi nào?
Không có một tài liệu nào ghi rõ, nhưng chắc chắc tên gọi này đã có từ trước năm 1975. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chinh, từ giữa thập niên 1950, khi có làn sóng di cư của hàng triệu đồng bào miền Bắc vào Nam, và cộng đồng người Bắc không quen với cách gọi là Nhứt, nên đã nói thành Tân Sơn Nhất. Lâu ngày trở thành tên phổ thông và được cả người Nam lẫn Bắc chấp nhận. Người ta vẫn gọi sân bay bằng cả 2 tên Tân Sơn Nhất và Tân Sơn Nhứt. Tuy nhiên tên gọi hành chánh chính thức vẫn là Tân Sơn Nhứt, nếu nhìn lại những tấm hình chụp sân bay ở sau đây.
Đến sau năm 1975, tên gọi chính thức của sân bay trở thành Tân Sơn Nhất. Kể từ sau đó, ngay cả người miền Nam cũng chấp nhận tên gọi này, ít người nhớ đến cái tên nguyên thuỷ là Tân Sơn Nhứt nữa, cho dù trong văn nói hàng ngày, người Sài Gòn vẫn quen nói là “đứng thứ nhứt, đứng thứ nhì”…
Như vậy, Tân Sơn Nhứt hay Tân Sơn Nhất chỉ là cách gọi theo vùng miền từ trước năm 1975, chứ không phải từ sau này, và cách sử dụng Nhứt hay Nhất không phải là sự “kỳ thị” Nam hay là Bắc, mà chỉ là sự khác biệt về ngôn ngữ vùng miền đã có từ năm 1954 tại miền Nam.
Tương tự, ở trung tâm Sài Gòn có một đại lộ tên là Thống Nhứt, nối từ Sở Thú đến cổng Dinh Độc Lập (hiện nay đường này tên là Lê Duẩn). Người ta quen gọi là đại lộ Thống Nhất, nhưng trên bảng tên đường thì vẫn ghi là Đại Lộ Thống Nhứt. Bạn có thể xem trong hình dưới đây, và hình zoom lớn để thấy chữ trên bảng tên đường.
Như đã nói tới, việc nói “Nhứt” hay “Nhất” đơn thuần là do sự khác biệt ngôn ngữ, không phải là sự kỳ thị vùng miền, và một vấn đề nữa là chữ Nhất đã được sử dụng phổ biến từ trước năm 1975 ở Sài Gòn, khi mà cộng đồng người Bắc di cư đã trở thành một phần quan trọng tại miền Nam với nhiều đóng góp lớn ở tất cả các lĩnh vực. Thậm chí tại cùng 1 cơ quan, có 2 tấm bảng ghi 2 chữ khác nhau như trong hình dưới đây (Quận Nhứt và Quận Nhất).
Lấy ví dụ trong âm nhạc, có một số bài hát sáng tác trước 75 dùng chữ “nhất” trong tựa đề, lời nhạcv, và hầu như không thấy có chữ “nhứt”. Ví dụ nhạc sĩ Phạm Duy có viết lời Việt cho bài hát mang tên Em Đẹp Nhất Đêm Nay, hoặc có ca khúc nổi tiếng mang tên là Tình Khúc Thứ Nhất, nhạc của Vũ Thành An, lời của Nguyễn Đình Toàn, và cả 3 vị nhạc sĩ này đều gốc từ miền Bắc di cư.
Một bài hát khác thuộc thể loại “nhạc vàng”, mang tên Tâm Sự Đời Tôi, có câu: Tình yêu thứ nhất đã đổi ngôi, người yêu thứ nhất đã phụ tôi… Các ca sĩ đều hát là “nhất”, không hát là “nhứt”, và trong tờ nhạc in cũng ghi là nhất.
Như vậy, “Nhứt” hay “Nhất” đều đúng, được nhắc tới trong cuốn từ điển chính thức của Việt Nam từ thế kỷ 19. Việc khác biệt ngôn ngữ giữa các vùng trong cùng một quốc gia, dân tộc, không phải là một điều lạ, mà là hiện tượng bình thường ở hầu hết các nơi trên thế giới. Sự khác biệt giữa ngôn ngữ Bắc – Nam được thống kê sơ bộ trong bài thơ khuyết danh sau:
“Bắc bảo kỳ, Nam kêu cọ
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi
Ôi! Bắc quở gầy, Nam than ốm
Bắc cáo ốm, Nam khai bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần sơ sơ, Bắc làm lấy lệ
Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc vạc tre, Bắc kê lều chõng
Bắc nói trổng thế thôi, Nam bâng quơ vậy đó
Bắc đan cái rọ, Nam làm giỏ tre,
Nam không nghe nói dai, Bắc chẳng mê lải nhải
Nam cãi bai bải, Bắc lý sự ào ào
Bắc vào ô tô, Nam vô xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi nắng Nam mở dù, Bắc lại xoè ô
Điên rồ Nam đi trốn, nguy khốn Bắc lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc từ từ, Bắc khuyên gượm lại
Bắc là quá dại, Nam thì ngu ghê
Nam sợ ghê, Bắc hãi quá
Nam thưa tía má, Bắc bẩm thầy u
Nam nhủ ưng ghê, Bắc mê hài lòng
Nam chối lòng vòng, Bắc bảo dối quanh
Nhanh nhanh Nam bẻ bắp, hấp tấp Bắc vặt ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ bông bụp, Bắc vuốt tường vi
Nam nói: mầy đi! Bắc hô: cút xéo!
Bắc bảo: cứ véo! Nam: ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gởi
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: “ăn đi chú”, Bắc: “mời anh xơi”
Bắc mới tập bơi, Nam thời học lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
Bắc quậy sướng phê, Nam rên đã quá
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng
“Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa
Bắc vua bia bọt, Nam chúa la-de
Bắc khoe “bùi bùi lạc rang”, Nam “thơm thơm đậu phọng”
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
“Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét “hổng chịu đèn“, Bắc vặn mình “em chả”
Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam mỉa “tên cà chua“, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Đến khi Nam địt, Bắc hô đánh rắm
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc xuýt xoa: “Cái Lan xinh cực!”
Nam trầm trồ: “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Câu chuyện về Tân Sơn Nhứt chưa dừng lại ở đây được. Bởi vì vì trước 1975, người ta quen với tên gọi Phi Trường Tân Sơn Nhứt. Tuy nhiên ở hình dưới đây, bảng hiệu lại ghi rõ là Phi Cảng Tân Sơn Nhứt.
Vậy Phi Cảng khác với Phi Trường ra sao?
Hãy liệt kê lại những khái niệm: Phi cảng, phi trường, phi đạo, và phi cơ.
Có thể thấy, theo cách gọi ngày nay, phi cơ là máy bay, phi đạo là đường băng để máy bay chạy lấy đà trước khi cất cánh.
Còn Phi trường, là chỗ có nhiều phi đạo, là nơi phi cơ cất cánh, hạ cánh, và dừng bánh. Dưới đây là toàn cảnh Phi trường Tân Sơn Nhứt ngày xưa.
Còn chữ Phi cảng mang nghĩa rộng hơn, bao gồm cả Phi trường lẫn sảnh chờ, như trong hình bên dưới.
Như vậy, Phi cảng Tân Sơn Nhứt là toàn bộ những thứ liên quan đến cơ sở của một cảng hàng không. Ngày nay, người ta vẫn dùng từ Cảng, gọi là Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, tương tự với chữ Phi cảng Tân Sơn Nhứt của ngày xưa.
Chữ Phi Cảng được dịch nguyên văn từ chữ Airport, với Port mang nghĩa chung là Cảng, trong đó Port đứng riêng thì được hiểu là Hải cảng, nhưng nếu là Airport thì là Phi cảng. Airport không thể nào dịch là Phi trường (Air field) được.
Một điều đặc biệt là Phi cảng Tân Sơn Nhứt là thành viên của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA) từ trước năm 1975 với mã IATA là SGN (Sài Gòn – Tân Sơn Nhứt), và cho đến tận ngày nay, dù cái tên Sài Gòn không còn tồn tại chính thức, nhưng mã IATA của sân bay Tân Sơn Nhất vẫn là SGN.
Đông Kha – chuyenxua.net