Những bài viết sau đây rất đặc biệt. Thứ nhất, nó mang văn phong của ngôn ngữ Việt hồi gần một thế kỷ trước, được viết vào thời kỳ chữ quốc ngữ bắt đầu phổ biến ở trong sách báo, nên sẽ có sự khác biệt rõ rệt với chữ nghĩa hiện nay.
Thứ hai, những bài viết này mang tính châm biếm sự mê tín và những hủ tục trong ngày Tết của người Việt hồi đầu thế kỷ 20, hoặc là mang tư tưởng ủng hộ bỏ Tết Ta để chuyển sang ăn Tết Dương Lịch, giống như nhiều ý kiến của thời nay.
Bài viết này có sử dụng một số từ Việt cổ mà ngày nay hầu như không còn ai dùng tới, thí dụ như chữ “chính sóc”, nghĩa là ngày mùng 1 Tết âm lịch, “học biệc” nghĩa là “có học”, “trước Jésus” nghĩa là trước Công Nguyên…
Một ít phong dao về ngày Tết và mùa xuân
Cái chính sóc theo âm lịch mà nước ta xưa nay đó là của Tàu. Song cái chính sóc ấy người Tàu cũng mới nhất định độ 2200 năm trở lại đây chớ hồi trước thì có thay đổi nhiều lần.
Hồi nhà Hạ (2250 trước Jésus) vẫn theo chính sóc đời xưa, kiến Dần, nghĩa là lấy tháng Giêng làm đầu năm như lịch bây giờ. Đến nhà Thương (1783 trước Jésus) lại kiến Sửu, lấy tháng Chạp làm đầu năm. Đến nhà Chu (1134 trước Jésus) kiến Tý, lấy tháng 11 làm đầu năm. Nhà Tần lại đổi chính sóc lần nữa, kiến Hợi, lấy tháng mười làm đầu năm. Cho đến sau nhà Hán mới bỏ kiến Tý mà đi theo kiến Dần như nhà Hạ, từ đó tuân hành luôn hơn hai nghìn năm cho đến Dân Quốc mới theo Dương lịch.
Nước ta từ hồi có sử thì lấy kiến Dần luôn, chớ không có sự thay đổi chi như Tàu; còn về hồi chưa có sử như đời Hùng Vương thì chính sóc của ta thế nào, thật không biết được.
Bởi vì theo sử ta không đủ mà khảo cứu, nên nhắc sơ một đoạn lịch sử về sự thay đổi của chính sóc của Tàu như trên kia để cho biết rằng cái ngày Tết đời xưa nó đã thay đổi nhiều phen, chớ không phải nhất định.
Ngày Tết đời xưa đã thay đổi mà không có nhất định thì nếu sau này ta bỏ Âm lịch mà theo Dương lịch cũng là một sự thường chẳng lấy chi làm lạ vậy, ấy cHỈ vì sự cần dùng theo thời đại mà thôi.
Sự theo Dương lịch chắc rồi đây cũng phải theo. Nếu vậy thì cái ngày Tết âm lịch sau này rồi nó sẽ thành đồ cổ, chỉ để làm vật cho người ta khảo cứu. bởi nghĩ như thế, tôi mới lượm lặt mấy câu phong dao có quan hệ với ngày Tết mà viết bài này, hầu để làm tài liệu cho ai muốn khảo cứu về sau.
Ngày Tết chỉ vào ba ngày mồng một, mồng hai, mồng ba của tháng Giêng năm mới, nhưng từ bữa ba mươi của tháng Chạp năm cũ cũng đã kể ra Tết rồi, mà ngày ấy lại là ngày quan hệ hơn ba ngày sau nữa. Vì người ta phải chạy tiền, chạy gạo, mua sắm mọi vật trong ngày ấy; rồi qua đến ba ngày sau chỉ ngồi đó mà ăn thôi.
Bởi vậy có câu:
Có không, mùa đông mới biết, giàu nghèo ba mươi Tết mới hay
Lại có câu:
Khôn ngoan đến cửa quan mới biết; giàu nghèo ba mươi Tết mới hay
Người ta làm ăn khó nhọc quanh năm, chỉ có ba ngày Tết là ngày ăn chơi sung sướng, theo tục ta là như vậy. Bởi vậy, dầu kẻ nghèo khó đến đâu nữa cũng phải sắm ăn trong ba bữa ấy cho sung túc, do đó mới có câu này:
Đói hòng ᴄhết, ba ngày Tết cũng no
Chẳng những vậy thôi, lại còn chỉ lo trong ba ngày ấy cho no, những ngày khác đói thây kệ! Người ta mới dám mạnh miệng nói rằng:
No ba ngày Tết, đói ba tháng hè
Ba tháng hè tức là ba tháng mùa hạ. theo ngoài Bắc, ba tháng hè là ba tháng chưa đến ngày mùa, cũng có lẽ đói thật.
Sở dĩ như vậy thì tại theo tư tưởng người mình thì đời người ta duy có gần Tết là sướng hơn hết, là quan trọng hơn hết, bởi có nói rằng:
Sống, ngày Tết; ᴄhết ngày giỗ
Nhưng sướng thì sướng mà phải lo:
Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng con cháu thì lo
Nói thì như vậy, chứ kỳ thật bao nhiêu của cúng cấp ngày Tết rồi cũng con cháu xơi hết chớ ông vải nào có được chi? Tuy vậy Tết nhất thì thế nào cũng nghĩ đến việc ông bà trước đã, trong đó đủ thấy cái thói tục trọng tổ tiên của người mình vậy.
Thịt heo là món ăn chính của người mình, mà duy có ngày Tết thì nhà nào cũng có, nên anh thầy bói mới đoán tiên tri cho cô kia mà rằng:
Số cô chẳng giàu thì nghèo, đến ba mươi Tết thì có thịt heo trong nhà
Dầu nghèo đi nữa, đến ba mươi Tết thì có nhiều bánh chưng, cũng như trong Nam nhiều bánh tét, nhiều đến nỗi thấy mà chán không muốn ăn, nói rằng:
Dửng dưng như bánh chưng ngày Tết
Ngày Tết chỉ có ăn với chơi. Hết ăn rồi đến chơi.
Cái Tết lại trúng nhằm mùa xuân, là mùa ấm áp vui vẻ, hợp với sự chơi lắm. Người ta giục nhau chơi mà nói rằng:
Ai ơi chơi lấy kẻo già, măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì đến sau!
Thiệt vậy, theo tâm lý người mình cũng như mọi người thiên hạ, cũng cho cái xuân là đẹp, là quý, nó đi đi là đáng tiếc:
Một năm là mấy tháng xuân?
Một ngày là mấy giờ dần sớm mai?
Năm kia dễ mấy mùa xuân?
Đỏ kia hầu dễ mấy lần đặt tên?
Một năm chưa dễ mấy xuân?
Gái kia chưa dễ mấy lần đưa dâu?
Huống chi:
Một năm một tuổi, như đuổi xuân đi!
Xuân qua mà tuổi của người ta cũng qua màu nhan sắc và có sức vóc, cũng một ngày một kém thì không chơi cũng phí mất một đời…
Song le, chúng ta đương ngày nay, ở trong cái tình cảm này, ở trong cái đời sanh hoạt khó khăn này, mà ăn làm sao? Mà chơi làm sao? Mà vui sướng làm sao? Dẫu có một đôi người ăn chơi vui sướng đi nữa, khi nghĩ đến phần đông đồng bào đương sống cơ cực, chân lấm tay bùn kia, mà chẳng đau lòng vì xuân sao được?
Tác giả: Hùng Sơn, đăng trong Sách chơi xuân năm Tân Vị do Nam Kỳ Thư Quán xuất bản ở Sài Gòn năm 1931.
Tết dán câu đối
Tục nước ta, cứ đến Tết Nguyên Đán là các nhà thường hay dán câu đối:
Nhập thế cuộc bất khả vô văn tự
Chẳng hay họ cũng phải dự một bài
Huống chi người có sẵn văn tài
Ngày Tết lại chẳng một hai câu đối
Ấy là người có văn tài mà giở ra thì còn dễ chịu, chứ nhiều ông “không có gì” mà cũng “gọi là một chút” rồi cũng một hai câu đối thì câu đối của ông ấy chửi đời lắm. Cũng vì thấy nhiều câu thực “chẳng ra gì” mà cũng viết, cũng dán nên đã có người làm một câu dán mỉa đời rằng:
Tết có gì, cũng viết loài viết xoài, cũng chữ hoài, dửng với họ ra điều học biệc!
Xuân thì chơi, nào câu đối câu điếc, nào pháo phiếc, chán cho đời những sự tết tung.
Rõ ra cái ý mỉa đời mà lại khéo dùng được nhiều những tiếng dịp đôi. Nhưng mỉa thì mỉa, ai chơi vẫn cứ chơi, cái thói dán câu đối Tết vẫn chưa bỏ được hẳn, nên cứ cuối năm các ông đồ, bác khóa là đã vác chiếu, vác mực, vác nghiên, vác bút ra ngồi ở hè phố “viết loài viết xoài” cũng kiếm được món tiêu.
Theo bà Thanh Quan thì dân ta phần đông là có duyên nợ với văn chương cả:
Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ gì trời đất phải trồng nêu
Cái thói dán chữ bảo để còn được, chứ cái thói trồng nêu thì còn giữ làm gì. Trồng nêu, treo mũ, hoặc giắt cành đa, bảo là theo phù thủy pháp môn để cho quỷ nó biết rằng đất mình ở đây cũng là đất của Phật mà nó sợ không dám đến quấy nhiễu; nhưng, quỷ nào? Rõ mê tín hão huyền thật. Câu trên này chính là ý bài bác cái thói hủ ấy.
Lại còn cái thói cứ đến Tết là đốt không biết bao nhiêu là pháo mà phần nhiều là mua của Tàu cả, thực là “gánh vàng đi đổ sông Ngô”. Bây giờ có pháo của Tây làm, đốt khét lẹt, rõ là mua lấy cái dại.
Một thói hủ nữa là cứ đến tối 30 thì đem vôi bột rắc, vẽ hình cung tên ra ngoài cửa, bảo là theo phép của đức Văn Thù Bồ Tát để nạt quỷ dạ xoa… thêm bẩn cả mắt. Nhịn chẳng được, Tú Xương làm một câu, kêu:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình trắng thế lại bôi vôi.
Thực ngụ ý bài trừ thói hủ, huyền hoặc vô lý ấy đi mà lại có ý than thở cho thiên hạ nhân tình lắm.
Hay là bảo đốt pháo, trồng nêu cho bọn mù nó biết là đến Tết, biết là đã xuân. Nhớ câu của Nguyễn Công Trứ làm cho một anh thầy bói rằng:
Tối ba mươi, dờ cẳng đụng cây nêu, ờ Tết
Sáng mùng một, lắng tai nghe tiếng pháo, hừ xuân!
Tài là ra được giọng thầy bói ngây ngô chẳng biết rõ lúc nào là xuân, lúc nào là Tết, đến khi nghe thấy pháo, đụng phải nêu mới hay, thực là ngớ ngẩn.
Tài tình nữa là Yên Đỗ, gần Tết có anh hàng thịt nọ đem biếu cụ bát tiết canh và đôi bồ dục để xin câu đối, cụ liền tức cảnh đọc ngay:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.
Nghĩa là bốn mùa tám tiết thay đổi thủy chung; gặp mùa xuân đến thì cây bồ liễu đều ý muốn điểm trang xuân sắc cả. Rõ thật là tả cảnh đầu xuân năm mới mà khéo dùng được những tiếng “bát tiết canh, đôi bồ dục” để ám chỉ nhà hàng thịt lợn.
Lại câu:
Uẩy ấy ai vặn máy tuần hoàn, đưa thoi ngọc để xoay trời đất lại,
Ừ mới biết rằng tay tạo hóa, tuông then xuân cho rạng nước non ra.
Và câu dán cửa:
Không dưng xuân đến chi nhà tớ
Có lẽ trời nào đóng cửa ai
Thì ý từ đều lưu loát cả, mà giọng văn đọc lên nghe thực mới. Câu dưới ý nói đầu năm xuân mới tới, trời mở cửa cho mọi sự gặp may cả, mà không phải dùng đến điển cố.
Lại câu sau này:
Uẩy! Tết đến rồi đó, chả lẽ giơ cùi cùng tuế nguyệt,
Kìa! Xuân sang đó nhỉ, phen này mở múi với giang san.
Nguyên là của một người học trò, Tết đến chỉ có một quả bồng nên mới có những tiếng “giơ cùi, mở múi” mà lại tả nghĩa nghèo kiết, chả lẽ giơ cùi ngồi xuống, tất cũng có ngày mở múi mà ra mặt mới đời. Đối đã hay lại có khẩu khí, hách dịch.
Cứ nói đến “khẩu khí” thì lại nhớ đến Lê Thánh Tông. Gần Tết vua ăn mặc thường để đi xem xét nhân tình, qua một nhà kia vẫn thấy quạnh hiu không trang hoàng câu đối câu điếc gì cả.
Vua liền rẽ vào hỏi thì chủ nhà nói là vì làm nghề hèn hạ nên không dám dán chữ và bầy biện gì. Vua trông quanh nhà thì thấy ở một góc kia có chiếc cập tre và chiếc áo tơi, chừng đã hiểu nên bảo ngay nghề gì chả là nghề, lấy phân chả là nghề sao, sao lại tự hạ thế, để ta làm cho đôi câu đối. Chờ người đó lấy giấy bút lại, vua liền viết:
Ý nhất nhung y, đởm thế gian chi nan sự
Đề tam xích kiếm, thu thiên hạ chi nhân tâm.
Nghĩa nói: Khoác chiếc áo tơi, đảm đang việc khó ở thế gian; Cầm ba thước kiếm thu hết lòng người trong thiên hạ. Rõ là ra khí tượng ông vua mà tả được việc gắp phân là việc rất khó, mấy ai dám làm, thế mà khoác chiếc áo tơi, cầm cái cập tre (trông như thanh kiếm) đảm đang được việc.
Nguyễn Hữu Chỉnh, ta thường quen gọi là Cống Chỉnh, nhân ngày Tết cũng làm hai câu dán cửa:
Mở khép càn khôn, có ra tay mới biết
Ra vào tướng tướng, thử liếc mắt mà coi.
Cũng có cái ngữ khí người anh hùng lắm. Về sau ông đem Tây Sơn ra Bắc Hà diệt Trịnh phù Lê, làm xoay chuyển cả đất trời (mở khép càn khôn), các quan khanh tướng đều phải khiếp sợ (ra vào tướng tướng).
Còn cái “cánh càn khôn” và cái “then tạo hóa” của Xuân Hương thì lại khác:
Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới,
Sáng mồng một, ngỏ then tạo hóa, để cho thiếu nữ rước xuân vào.
Tuy cũng là ngụ ý chỏ then cửa với cánh cửa, mà lại trỏ… có ý lẳng lơ.
Đến câu dán cánh cửa nhà cô Tư Hồng của Yên Đỗ làm cho, đọc mới thấy nhiều kỳ thú:
Mở toang ra toác toạc toàng toang, nền tạo hóa chỉa ra đôi mảnh
Khép khít lại khìn khin khít khịt, máy âm dương đưa đẩy một phen.
Câu đối mà dùng được những tiếng tục ngữ để ghép lại thành thì thực là tài như câu dưới này, không nhớ được là của ai, làm để dán nơi điếm sở trong làng:
Cấm đình, cấm đáo, cấm pháo thăng thiên, cấm tiền xóc ống, cấm búng sa quay, cấm xoay thò lò, cấm tuốt
Có bầu, có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, có đệp bánh chưng, có lưng hũ rượu, có gì.
Còn cảnh chùa làng. Ta xem câu đối dán Tết của một nhà sư dưới đây cũng đủ rõ:
Lá phướn phất ngang trời, bốn bể đều trông nêu Phật,
Tiếng chuông kêu dậy đất, năm châu cũng tưởng pháo sư.
Cảnh trường học. Truyền rằng Cao Bá Quát khi làm Giáo thụ, nhân ngày Tết làm dán nhà trường:
Mô phạm năm ba thằng mặt trắng
Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lưng vàng.
Mặt trắng là người học trò (bạch diện thư sinh), lưng vàng là lương quan Giáo, ngày xưa chỉ ăn độ một hộc rưỡi gạo vàng mà thôi. Nhân tài như thế mà đãi một cách như thế, đỉnh chung, mô phạm nỗi gì, đến ai mà không oán vọng…
Tác giả: Lê Tràng Kiều, đăng trong Tập Văn xuân năm Giáp Tuất của Vị Giang văn khố năm 1934
Một vài câu đối xưa:
Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, dang tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ)
Có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày được trăm bận tết.
Ước gì nhỉ? Một năm mười hai tháng cả bốn mùa xuân.
(Nguyễn Khuyến)
Nực cười thay! nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà tết!
Thôi cũng được! rượu có, nem có, bánh chưng vẫn có, thừa chơi!
(Tú Xương)
Tết tung túng tắng tiền tiêu Tết.
Xuân xiếc xênh xang sắm sửa Xuân.
(Nguyễn Bính)
Hoa đào toét miệng báo xuân sang; mở cửa đón xuân, xuân: chào chủ!
Quả mứt đậy ngăn chờ khách đến, pha trà thết khách, khách: mời em!
(Hoàng Quảng Đức – 1933)
Tối ba mươi, quét cảnh tàn đông. đem nét mực xóa nhòa tranh vũ trụ
Sáng mồng một, đón mừng xuân mới, đốt pháo hồng lấp hẳn cuộc tang thương.
Ngoài vườn thúy con oanh chúc Tết,
Trong nhà xuân nét chữ đề thơ
Tháng trước đã mời đi, vì ông Táo ngủ quên làm bếp cháy,
Xuân này không cúng nữa, bởi thần Tài ăn đút để buôn thua.
(Nguyễn Văn Tiến 1935)
chuyenxua.net