Để hình dung về hình dáng và trang phục của người Việt thời kỳ cuối thế kỷ 19, mời các bạn đọc lại ghi chép của bác sĩ J.C. Baurac trong cuốn Nam kỳ và Cư Dân viết năm 1894. Ông đã sống và làm việc lâu năm ở Nam kỳ, thường xuyên phải thực địa sâu sát đến từng địa phương và tiếp xúc với người dân bản xứ và quan chức thuộc địa. Ông đặc biệt thấu hiểu xứ sở thông qua hành trình tác nghiệp dọc theo hệ thống sông ngòi chằng chịt của vùng đất này, nên đã viết một công trình đồ sộ mô tả chi tiết cuộc sống, văn hóa, sinh hoạt của người Việt thời hơn 130 trước, trong những năm đầu dưới sự đô hộ của thực dân Pháp.
Những hình ảnh trong bài này đa số là được nhiếp ảnh gia Émile Gsell chụp vào khoảng thời gian giữa thập niên 1870 (hơn 10 năm sau khi Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp).
Vóc dáng, dung mạo người Việt
Người An Nam có vóc dáng trung bình, có chi dưới vững chắc, khung chậu ít phát triển, nửa thân trên dài và ốm, ngực hơi nhô nhưng cân đối, đầu có tỷ lệ hài hòa, bàn tay thon dài, bàn chân đẹp khi được chăm sóc, với đặc điểm ngón chân cái rất phát triển và hơi choãi ra so với các ngón khác, nên từ xưa họ đã được gọi bằng cái tên Giao Chỉ (ngón chân tõe hướng).
Nước da người An Nam có màu đồng nhưng sắc thái rất khác nhau tùy theo tầng lớp và nghề nghiệp. Trán tròn, gò má cao, đôi mắt đen hơi xếch, sóng mũi thấp, vẻ mặt khá hiền lành. Người An Nam cạo râu cho đến khi họ khoảng 30 tuổi.
Dưới góc độ nhân học, đầu của người phụ nữ An Nam nhỏ hơn so với đàn ông, dù một số bộ phận trên mặt thì lớn hơn. Gương mặt hình thoi ở cả hai giới đều cân đối với đầu, mặc dù đa số các tác giả đều cho rằng gương mặt phụ nữ An Nam có hình trái xoan cân đối. Góc mặt của nữ giới cũng mở hơn so với nam giới.
Mắt người An Nam có độ xếch, mặc dù so với người Hoa, đặc điểm này ở người An Nam ít rõ nét hơn nhiều, chỉ được thể hiện rõ nét ở người Minh hương.
Vóc dáng của người An Nam trung bình cao tầm 1m59 (nam) và 1m52 (nữ). Cân nặng trung bình của nam là 55.6kg, nữ là 44.7kg (theo tài liệu của Ủy ban Nông nghiệp năm 1878).
Trang phục
Trang phục của người An Nam gồm áo quần rộng và lùng thùng mà những người thanh lịch dùng một chiếc thắt lưng lụa màu sặc sỡ quấn quanh cơ thể để giữ, bên trong thường là áo màu trắng và một loại áo dài màu đen với 5 nút cài một bên; chiếc áo dài bên ngoài này trùm quá đầu gối, rất tươm tất, chỉnh tề và dạng áo này là bất biến đối với người giàu cũng như người nghèo.
Trang phục nam nữ đều rất giống nhau. Ngày xưa, phụ nữ áo dài xuống tận bàn chân, nhưng vua Minh Mạng đã ra chiếu chỉ buộc tất cả phụ nữ trong nước phải mặc quần cộc và phải ăn mặc tương đồng với đồng. Lệnh chỉ vô lý này đã gây ra sự chống đối và suýt nữa dẫn tới bạo loạn ở Bắc kỳ, nhưng “quân lệnh như sơn”, cuối cùng người dân cũng phải vâng mệnh.
Khi làm việc, đàn ông thường chỉ mặc quần dài và đôi khi thêm một chiếc áo khoắc ngắn nhỏ; phụ nữ đeo yếm cho ngực hay là một miếng vải có hai dây buộc sau lưng và dải buộc trên cổ phía sau đầu.
Trong nghi lễ, đàn ông đội khăn đen, quấn quanh đầu; thanh niên ưa diện khăn màu sặc sỡ, đặc biệt là xanh dương và đỏ. Ở Bắc kỳ, phụ nữ đội nón rơm lớn đáy phẳng và rộng vành, có hai dải lụa dài dưới thắt dưới cằm và thõng xuống tận chân. ở Nam kỳ, phụ nữ thường để đầu trần, tóc búi cao. Họ đeo vòng tay bằng vàng và hổ phách. Bàn tay của họ nhỏ đến mức nó dễ dàng trượt vào những chiếc vòng không hề có nút mở này.
Phụ nữ An Nam có niềm đam mê với đồ trang sức. Khuyên tai họ đeo thường bằng vàng; thân bông tai được chạm lộng. Họ có thói quen bôi dầu dừa lên tóc.
Phụ nữ An Nam khá hấp dẫn và quyến rũ ở tuổi thanh xuân nhưng tuổi trẻ nhanh tàn và họ già đi nhanh chóng.
Người An Nam thường không đi giày, và trước khi người Pháp tới Nam kỳ, giày bị cấm hoàn toàn với dân thường.
Lễ nghi của người An Nam không cho phép người ta đi giày xuất hiện trước kẻ bề trên; phải để dép ở cửa và đi chân trần. Thói quen này có từ thời thơ ấu, khiến lòng bàn chân ai nấy đều chai sạn, đến mức người An Nam có thể đi trên đá và xuyên qua các cánh rừng đầy bụi rậm và bụi gai mà không hề đau đớn.
Từ một vài năm nay, những người khá giả và nhiều người An Nam khác, chẳng hạn như thông ngôn, thư ký của Đổng lý Nội vụ… nhất là ở Sài Gòn đã mang tất và giày Âu châu; phụ nữ thuộc tầng lớp khá giả vẫn mang giày Trung Hoa. Tất cả những thứ này sẽ tạo một vẻ ngoài rất tươm tất và thậm chí sang trọng, vì lễ phục của họ luôn bằng lụa, ngoại trừ người nghèo; nhưng sự cẩu thả và bẩn thỉu luôn làm giảm sút giá trị của trang phục. Trước khi người Pháp tới, việc giặt quần áo hoàn toàn không được biết đến; quan lại cũng như người dân thường, mặc quần áo cho đến khi chúng sờn rách.
Người An Nam ở các tầng lớp dưới chưa bỏ thói quen đó. Chúng ta hiểu hậu quả của lối sống cẩu thả như vậy ở một vùng đất như xứ Nam kỳ, nơi mà chấy rận lúc nhúc và mồ hôi thấm đẫm quần áo họ mặc cả ngày lẫn đêm, bởi họ mặc nguyên áo quần mà nằm trên chiếu.