Hôm trước, khi ad đăng một bài viết của nhà báo Phan Khôi cách đây hơn 100 năm, trong bài viết khi nói về người Việt, tác giả dùng chữ “người An Nam”. Có người vào comment chỉ trích và nói ông Phan Khôi “thiếu hiểu biết”, cho rằng chữ An Nam chỉ dùng ở thời Bắc thuộc, còn thời Pháp thuộc thì không ai nói là An Nam nữa.
Ý kiến này thật ra chỉ đến từ một người thiếu kiến thức lịch sử, tuy nhiên xét thấy rằng những người như vậy vẫn còn rất nhiều, bởi giai đoạn lịch sử 100 năm trước ở nước ta không được nói thật tường tận trong sách giáo khoa thời hiện đại, hoặc có nhiều cái gây hiểu lầm. Vì vậy bài viết này sẽ tập nói giải thích rõ tên gọi của các vùng, miền nước ta thời thuộc Pháp, và xuất xứ của chữ An Nam.
Sau khi chiếm trọn Việt Nam năm 1883, người Pháp chia ra thành 3 vùng Bắc Kỳ – Trung Kỳ và Nam Kỳ, với tên gọi tiếng Pháp lần lượt là Tonkin – Annam – Cochinchine. Những cái tên này sẽ lần lượt được giải thích sau đây.
Tonkin (Bắc kỳ)
Thực ra, những cái tên này không phải do người Pháp tự nghĩ ra, mà nó có xuất xứ từ lâu đời, bắt nguồn từ cách mà các thương nhân phương Tây đã gọi khi tới giao thương với người Việt từ thời các chúa Nguyễn.
Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, nước Việt chỉ kéo dài tới Diên Khánh – Nha Trang ngày nay. Lúc này sông Gianh (nay thuộc Quảng Trị) đã chia đất nước thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, trong đó Đàng Ngoài là nơi có kinh đô Thăng Long cũ.
Tên gọi Thăng Long được thay đổi theo các thời kỳ, thời Hồ Quý Ly, tên Thăng Long đổi thành Đông Đô, sau đó thời Bắc thuộc nhà Minh, Hà Nội đổi thành Đông Quan. Khi Lê Lợi đánh giặc ngoại xâm để lên ngôi, lấy Thăng Long cũ làm kinh đô và đổi tên thành Đông Kinh (để phân biệt với Lam Kinh Thanh Hóa, được gọi là Tây Kinh – nơi vua Lê làm khởi nghĩa).
Cái tên Đông Kinh này tồn tại suốt từ năm 1408 của nhà Hậu Lê tới tận năm 1787 thì vua Quang Trung mới đổi lại thành tên Bắc Thành. Lúc đó kinh đô của đất nước được vua Quang Trung đặt ở Phú Xuân (Huế), còn kinh đô cũ chỉ là một trấn ở phía Bắc.
Như vậy cái tên Đông Kinh tồn tại suốt thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (thế kỷ 17) và thời các chúa Nguyễn (thế kỷ 17-18), và đây cũng là giai đoạn các thương gia và giáo sĩ phương Tây bắt đầu qua nước Đại Việt buôn bán và truyền đạo. Họ phiên âm chữ Đông Kinh trong tiếng Việt ra thành Tonkin, Tonquin, Tongkin hoặc Tongking. Khi đó Tonkin không chỉ được gọi cho vùng đất Đông Kinh (Hà Nội), mà mở rộng ra để gọi chung cho toàn miền Bắc nói chung.
Khi Pháp xâm lược nước Đại Nam, họ vẫn gọi tên các vùng ở đây theo tên cũ của những người phương Tây trước đó, tức là Tonkin để chỉ Bắc kỳ.
An Nam (Trung kỳ)
Trước khi giải thích nguồn gốc vì sao Trung kỳ lại được người Pháp gọi là An Nam, xin nhắc lại sơ qua về cột mốc lịch sử năm 1883, khi triều đình nhà Nguyễn bị thất thủ ở Hà Nội và buộc phải ký hiệp ước Quý Mùi, làm cho toàn nước Đại Nam hoặc trở thành thuộc địa của Pháp, hoặc chịu sự “bảo hộ” của Pháp.
Lúc đó toàn cõi Nam kỳ vốn là xứ thuộc địa chính thức từ năm 1867, do Pháp cai trị trực tiếp. Còn ở Bắc và Trung kỳ là “xứ bảo hộ”, quan lại người bản xứ trên danh nghĩa là quan của triều đình nhưng đều trực thuộc quyền công sứ người Pháp.
Viên công sứ này được gọi là Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ” (Résident général de l’Annam et du Tonkin), gọi tắt là Tổng sứ, và thường được gọi là “Toàn quyền lưỡng kỳ” hoặc “Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ”.
Trên danh nghĩa, vùng đất Trung kỳ (các tỉnh từ Khánh Hòa ra đến Đèo Ngang) lúc đó thuộc triều đình Huế. Đó là vùng đất có kinh đô Huế, trung tâm chính trị của nước Đại Nam trước đó, và người Pháp gọi là An Nam.
Cái tên An Nam có từ rất lâu đời. Theo cổ sử, địa danh An Nam xuất hiện năm 679 với việc triều Đường Cao Tông đổi Giao Châu tổng quản phủ (từ 622) thành An Nam đô hộ phủ. Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, An Nam là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình Việt Nam với triều đình Trung Hoa. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người Việt Nam thường xưng An Nam quốc đối với các triều đại quân chủ Trung Hoa.
Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn Đại Việt làm quốc danh chính thức, nhưng thường chỉ tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, vua Minh Mạng mới ban đạo dụ nhất quán gọi Đại Nam quốc, tuy nhiên danh xưng An Nam vẫn không dứt.
Tên gọi An Nam do người Trung Quốc sử dụng qua suốt hàng ngàn năm, cho tới kho người phương Tây tới và họ cũng gọi theo. Cái tên này xuất hiện trong những từ điển đầu tiên của các giáo sĩ châu Âu, như Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển (tiếng) An Nam – Bồ Đào Nha – Latinh) của Alexandre de Rhodes, năm 1651; Dictionarium Anamitico-Latinum (Từ điển An Nam – Latinh) của Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), soạn năm 1773 và được Jean-Louis Taberd biên tập lại và xuất bản năm 1838; Dictionnaire annamite – français (Từ điển An Nam – Pháp) của J. F. M. Génibrel, năm 1898.
Alexandre de Rhodes khi nhắc tới nước Annam, có nhắc tới 2 vùng là Đàng Trong, được ghi tiếng Pháp là Cochinchine, và Đàng Ngoài, ghi là Tunquin.
Vì Huế là kinh đô của đất nước lúc đó, nên ban đầu người phương Tây dùng chữ Annam để gọi tên vùng đất có kinh đô, tức là Huế nói riêng và toàn Trung kỳ nói chung. Sau này khi người Pháp chia thành 3 kỳ, vùng đất Trung kỳ được họ gọi thành An Nam là vì vậy. Cũng vào khi đó, người Pháp sử dụng chữ An Nam để chỉ người Việt (Annammite), và các tác giả người Việt dịch chữ Annammite này thành “người An Nam”. Đó là lý do báo chí quốc ngữ đầu thế kỷ 20 không gọi là người Việt, mà gọi thành “người An Nam”. Ngày nay người Việt thường hiểu từ “Annam”, hoặc “người An Nam” theo một nghĩa tiêu cực, mang hàm ý miệt thị dân tộc và vì vậy không thích sử dụng nó. Tuy nhiên cách đây hơn 100 năm, đây là một danh từ được sử dụng bình thường.
Cochinchine (Nam kỳ)
Không như 2 cái tên Annam và Tonkin đã thống nhất về nguồn gốc, cái tên mà người Pháp gọi Nam kỳ là Cochinchine có nhiều giả thuyết xuất xứ khác nhau.
Ngay từ thế kỷ 16, nhiều văn bản của người phương Tây đã nhắc tới cái tên này, đó là F. Xavier (1549), G. B. Ramusio (Ý, 1550), J. Barros (Bồ Đào Nha, 1552), F.L. Castanheda (Bồ Đào Nha, 1553), A. Thevet (Pháp, 1575), F. Belle-Forest (Pháp, 1575), Richarde Willes (Anh, 1577), G. Mendoҫa (Tây Ban Nha, 1585), H. Linschoten (Hà Lan, 1596).
Có lẽ người Việt Nam đầu tiên đề cập đến nguồn gốc tên gọi Cochinchine là Nguyễn Văn Tố trong bài viết “Quốc hiệu nước ta” đăng trên Tri Tân Tạp chí số 1 năm 1941, tuy nhiên ông cũng chỉ nêu vấn đề mà thôi. Còn ở phương Tây thì ngay từ thế kỷ 17 đã có nhiều người đưa ra nhiều lời giải thích khác nhau với mức độ thuyết phục khác nhau.
Bài viết sau đây của tác giả Huỳnh K. Nho & Trần Thanh Ái đăng trên tạp chí Xưa & Nay năm 2021:
Giả thuyết 1: Gọi theo sách địa lý cổ đại châu Âu
Tài liệu được biên soạn sớm nhất có đề cập đến nguồn gốc của chữ Cochinchine có lẽ là quyển Declaraçam de Malaca e India meridional com o Cathay do Godinho de Eredia viết vào năm 1613, nhưng mãi đến năm 1882 mới được biết đến qua bản dịch tiếng Pháp. Godinho de Eredia sinh ra và lớn lên ở Malacca, theo học ở trường dòng tên ở đây và sau đó được gởi đi học tiếp ở Goa (Ấn Độ). Có lẽ vì thế mà ông tiếp nhận được cả hai mảng kiến thức địa lý của Tây phương và Đông phương, nên ông có cái nhìn đối chiếu giữa kiến thức địa lý cổ đại châu Âu và thực tế phương Đông. Trong phần giới thiệu Trung Hoa, ông luôn liên hệ kiến thức địa lý mà hai nhà nghiên cứu Pline và Ptolémée đã để lại. Khi nói đến phần lãnh thổ Đại Việt, ông hé lộ thông tin liên quan đến nước ta ngày ấy như sau:
“Nước Trung Hoa ngày xưa được các nhà địa lý cổ đại [châu Âu] phân chia thành ba tỉnh: thứ nhất là Sim hoặc Chim, thứ hai là Mansim hoặc Machim, còn được gọi là Đại Trung Hoa, thứ ba là Coc Sim hay Cochim, còn được gọi là Tiểu Trung Hoa.” (Godinho de Eredia 1882, tr. 75)
Và ở chương sau đó Godinho de Eredia cung cấp thêm thông tin: “Người ta đã gán cái tên Coc Sim nghĩa là Tiểu Trung Hoa cho nước Coc Sim tức Cochim china, là thuộc quốc của Nam Kinh, mặc dù nó có vẻ lệ thuộc vào nước Sim” (tr. 79). Qua trình bày của Godinho de Eredia người đọc hiểu rằng tên gọi Cochim china xuất phát từ chữ Coc Sim mà ông cho là đã được ghi trong sách địa lý của Ptolémée. Vì Godinho de Eredia không nêu rõ chi tiết các trích dẫn nên chúng tôi chưa thể kiểm chứng được giả thuyết này.
Giả thuyết 2: Người Bồ Đào Nha gọi theo người Nhật
Có lẽ giáo sĩ C. Borri là người được biết đến sớm nhất về việc giải thích nguồn gốc của tên gọi Cocincina: năm 1631 trong quyển Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina xuất bản tại Roma, ông cho rằng chữ Cocincina là cách mà người Bồ Đào Nha gọi theo người Nhật:
“Xứ Cocincina, như người Bồ Đào Nha gọi, có tên bằng tiếng bản địa là An Nam, nghĩa là vương quốc này nằm ở phía tây so với Trung Hoa. Người Nhật cũng gọi xứ này là Coci, trong ngôn ngữ của họ cũng có nghĩa là An Nam như trong ngôn ngữ của người Cocincina. Nhưng khi người Bồ Đào Nha vào đây buôn bán, họ ghép chữ Coci với chữ Cina để tạo thành chữ Cocincina để gọi xứ này, như thể muốn nói là Cocin của Cina, để phân biệt với Cocin là một đô thị của Ấn Độ, là nơi mà người Bồ Đào Nha cũng thường tới lui.” (Borri C. 1631, tr. 5-6)
Có lẽ Borri nghe người Nhật phát âm chữ 交阯 hay 交趾 (Giao Chỉ) mà người Trung Hoa thường dùng để gọi nước ta, vì thời bấy giờ người Nhật còn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền học thuật Trung Hoa như các nước đồng văn khác. Thật vậy, đến đầu thế kỷ XVII người Nhật vẫn còn gọi nước ta là Kochi mà ngày nay chúng ta vẫn còn tìm thấy trên nhiều chứng cứ lịch sử. Về việc có nhiều cách viết khác nhau trên các tài liệu, Borri cũng giải thích như sau:
“Còn về việc trên các bản đồ thế giới Cocincina thường được ghi là Caucincina hay Caucina hoặc những chữ giống như vậy, đó chẳng qua là do hiện tượng phát âm sai lệch của danh từ riêng này, hoặc là vì các tác giả bản đồ ấy muốn nói là vương quốc này là cửa ngõ và là nơi bắt đầu của Trung Hoa.” (Borri C., tr. 6)
Gần hai thế kỷ sau, nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng như Malte-Brun cũng tán thành giả thuyết này, góp phần truyền bá rộng rãi cách giải thích này trên thế giới: “Người Nhật gọi xứ sở nằm ở phía Tây Trung Hoa là Cotchin-Djina, và thế là người châu Âu gọi theo họ.” (Malte-Brun 1827, tr. 282)
A. de Rhôdes cũng cho rằng chữ Cochinchine được người Bồ Đào Nha sáng tạo ra khi tiếp xúc với người Nhật, nhưng lại cho rằng thành tố Cochin- xuất phát từ tên kinh đô nước An Nam mà ông gọi là Che ce, có lẽ ông muốn nói đến tên Kẻ Chợ:
“Vì tên của kinh đô nước An Nam là Che ce, và các thương nhân người Nhật đã từng buôn bán ở đó gọi chệch nó là Coci nên những người Bồ Đào Nha buôn bán với họ đã tạo ra chữ Cocinchine để phân biệt Coci với Cocin gần Goa của Ấn Độ, như thể muốn nói Cocin gần Trung Hoa. Và tên gọi này không phải quá mới, vì xứ này đã được gọi như thế từ một thế kỷ qua.” (de Rhodes A., 1651, tr. 3)
Ngày nay người ta nhận ra ngay lập tức sự sai lệch về niên đại của giả thuyết này, nhờ nhiều tài liệu mới được công bố: ngay từ khi chưa đặt chân lên vùng Viễn Đông, người Bồ Đào Nha đã gọi nước ta là Chinacochim (bản đồ Cantino năm 1502), hoặc năm 1512-1515 Tomé Pires đã gọi nước ta là Cochin China, hay D. Barbosa gọi là Conchin Chinan lúc ấy họ chưa tiếp xúc với người Nhật. Hơn nữa, người đọc sẽ không khỏi thắc mắc: tại sao người Bồ Đào Nha vay mượn ở người Nhật chớ không phải là người Trung Hoa, vì ngay khi chiếm Malacca năm 1511, một số thương nhân người Trung Hoa đã liên lạc ngay với họ, thậm chí chở họ đi Xiêm và Quảng Đông? Những chi tiết ấy cho phép chúng ta bác bỏ giả thuyết này.
Giả thuyết 3: Người Bồ Đào Nha gọi theo tên Kẻ Chợ
M .Ferreira trong quyển Noticias summarias das perseguições da missam de Cochinchina xuất bản tại Lisboa năm 1700, cho rằng khi đến kinh đô nước Đại Việt mà tên gọi thông dụng lúc ấy là Kẻ Chợ, họ nhận thấy dân chúng tại đây giống với người Trung Hoa bèn gọi nước ta là Cochinchina: “Khi nghe gọi kinh đô của vương quốc này là Kecho, và nhận thấy rằng người bản xứ rất giống với người Trung Hoa, người Bồ Đào Nha đã kết hợp hai chữ Kecho và China thành chữ Cochinchina với cách phát âm lệch lạc” (Ferreira M. 1700, tr. 4).
Năm 1523 Toàn quyền Malacca đã cử một phái đoàn do Duarte Coelho dẫn đầu đi Đại Việt để thiết lập bang giao. Nhưng lúc ấy tình hình trong nước rối ren, nhà Mạc tiếm ngôi, vua Lê Chiêu Tông đã bị Trịnh Tuy đưa về Thanh Hóa, nên phái đoàn không dám đến gần, chỉ dừng chân ở Cù Lao Chàm. Tranh chấp Nam triều – Bắc triều giữa nhà Mạc và nhà Lê chỉ kết thúc vào năm 1592 khi Trịnh Tùng chiếm lại được Đông Đô. Theo Manguin (1972), mãi đến năm 1626 người Bồ Đào Nha mới đến kinh đô Thăng Long, thế mà như nói ở trên, từ năm 1502 họ đã có chữ để gọi tên nước ta, và tên gọi này cùng các biến thể đã được sách vở các nước châu Âu nhắc đến ngày càng nhiều trong nửa sau thế kỷ 16. Thật vậy, ngoài những bản thảo được phát hiện và phổ biến vào các thế kỷ sau như của Tomé Pires, D. Barbosa, A. Pigafetta, F.G. Pinto…, vào thời ấy đã có nhiều sách xuất bản có nhắc đến nước Đại Việt như đã nói bên trên. Vì thế giả thuyết này không phù hợp với các dữ liệu lịch sử đã được kiểm chứng.
Giả thuyết 4: Người Bồ Đào Nha gọi theo tên của vùng Cochim (Ấn Độ)
Giả thuyết này được giám mục Isauropolis (tức Jean-Louis Taberd) nêu ra đầu tiên vào năm 1837 trong bài viết đăng trên tạp chí Journal of the Asiatic Society of Bengal. Theo giả thuyết này, một số nhà du hành Bồ Đào Nha thấy bờ biển nước ta giống với vùng đất Kuchin của Ấn Độ (người Bồ Đào Nha gọi là Cochim, người Anh gọi là Kochi, người Pháp gọi là Cochin) nơi mà người Bồ Đào Nha đã đặt thương điếm sau khi đặt chân đến bờ biển Malabar năm 1503.
“Nguồn gốc của tên gọi Cochin China nằm ở hai chữ China và Cochin. Người Bồ Đào Nha đến vùng Ấn Độ đầu tiên vì tưởng tượng ra những nét giống nhau giữa bờ biển An Nam và bờ biển Cochin ở vùng Malabar của Ấn Độ, và kết hợp nó với vị trí lân cận với China bèn đặt tên cho nó bằng chữ ghép Cochin China, có nghĩa là Cochin thuộc China” (Taberd J.-L., 1837, tr. 738)
Giả thuyết này được một số tác giả người Pháp ủng hộ, có lẽ vì chỉ có người Pháp mới viết tên vùng đất này là Cochin. Thế nhưng không thấy có tác giả nào cho biết hai vùng giống nhau như thế nào, và cũng không nêu ra tên tài liệu nào nói về nhà du hành Bồ Đào Nha nào nhận ra sự giống nhau này. Có lẽ đây cũng chỉ là sự suy đoán nhất thời khi thấy trong chữ Cochinchine có chữ Cochin mà thôi.
Giả thuyết 5: người Bồ Đào Nha gọi theo người Mã Lai
Năm 1856, J. Crawfurd đã viết trong quyển từ điển A Descriptive Dictionary of Indian Islands & Adjacent Countries, rằng tên gọi Cochin-China do người Bồ Đào Nha đặt ra và có lẽ xuất phát từ chữ Kuchi mà người Mã Lai dùng để chỉ nước ta thời ấy. Ông viết: “Tên này do người Bồ Đào Nha đặt, và có lẽ nó được tạo ra từ chữ Kuchi, tên mà người Mã Lai dùng để chỉ xứ này”. Tuy nhiên, ông còn đi xa hơn khi nêu ra giả thuyết về nguồn gốc tên gọi xứ Kuchi:
“…rất có thể đó cũng là tên mà người An Nam dùng để chỉ kinh đô xứ Đàng Ngoài, tức là Kechao hay Kachao. Tuy nhiên, người Mã Lai gọi là Kuchi, mà người Bồ Đào Nha viết ra thành Cochin như tên một thành phố Ấn Độ trên bờ biển Coromandel, và để phân biệt với xứ ở Ấn Độ, họ thêm vào chữ China hoặc Chinese.” (Crawfurd J. 1856, tr.105)
Năm 1886, hai tác giả Yule H & Burnell A.C. trong quyển Hobson-Jobson… cũng công nhận rằng người Mã Lai gọi nước ta là Kuchi và chỉ ra bằng chứng là trong biên niên sử Mã Lai Sijara Malayu có dùng chữ này để gọi nước ta (Braddell T. 1851, tr. 729).
Một nhà Đông phương học khác là P. Pelliot cũng tìm thấy nguồn gốc Mã Lai trong tên gọi Cochinchine, tuy nhiên, ông không do dự như J. Crawfurd về từ nguyên của thành tố Cochin- mà quả quyết rằng nó chính là cách người Mã Lai phát âm tên chữ Hán 交阯 (Giao Chỉ):
“Tôi không hề nghi ngờ rằng Cauchi tương ứng với chữ Kutchi của người Mã Lai. […]. Về từ nguyên của chữ Kutchi, khác với suy nghĩ của Terrien de Lacouperie cho rằng nó xuất phát từ 九真 Kieou-tchen [Cửu Chân], đối với tôi gần như chắc chắn rằng đó là chữ 交阯 Kiao-tche [Giao Chỉ] được dùng để chỉ nước An Nam ít nhất là đến cuối thế kỷ XIII.” (Pelliot P. 1903, tr. 299)
Giả thuyết này được Aurousseau bổ sung và phát triển vào năm 1924, ông cho thấy tên gọi Cochinchine là kết quả của một mạng lưới giao tiếp liên văn hóa Á-rập – Mã Lai – Trung Hoa, và đã tìm ra nhiều bằng chứng thuyết phục (xem thêm ở đoạn sau).
Sau đó, năm 1947, GS. Boxer phát hiện một bản chép tay được cho là thực hiện vào năm 1595, và hiện được lưu giữ tại Lilly Library of the University of Indiana (thường được gọi là Boxer Codex) trong đó có hình một người đàn ông và một phụ nữ, với dòng chữ ghi trên đầu trang bằng chữ Hán 交趾 [Giao Chỉ] và chữ phiên chuyển sang tiếng Tây Ban Nha Caupchy như hình dưới đây. Điều đó cho thấy rằng người phương Tây gọi nước ta dựa theo cách gọi của người Trung Hoa và các nước khác trong khu vực.
Giả thuyết 6: người Bồ Đào Nha gọi theo tên quận Cửu Chân của Đại Việt
Hai tác giả Yule H. & Burnell A.C. trong tài liệu nói bên trên (1886) cũng giới thiệu một ý tưởng trong bản thảo của nhà Đông phương học Terrien de Lacouperie nói về nguồn gốc chữ Cochin-China: ông này cho rằng Kuchi chính là chữ Kuu-chӧn [Cửu Chân], tuy nhiên ông không cung cấp bằng chứng nào ngoài việc lưu ý là người Quảng Đông phát âm chữ này là Kau-chen và người Bắc Kinh là Kiu-ching. (Yule H. & Burnell A.C. 1886, tr. 226)
Năm 2007, Vu Dinh Dinh phát triển ý tưởng của Terrien de Lacouperie bằng cách đưa ra nhiều minh chứng bằng bản đồ do người châu Âu vẽ trong khoảng thời gian 1502-1653, nhưng lập luận không vững chắc và nhất là các bằng chứng đưa ra không có sức thuyết phục.
Giả thuyết 7: người Bồ Đào Nha gọi theo người Trung Hoa
Cho rằng dựa vào sự giống nhau về hình thể bờ biển là không thuyết phục, E. Luro trong quyển Le Pays d’Annam (1878) nêu giả thuyết là:
“…chữ Cochinchine bắt nguồn từ các chữ Hán mà một hoa tiêu người Quảng Đông đã cho người châu Âu biết khi đi ngang qua bờ biển Chiêm Thành: Co Cheng Ching có nghĩa là Ancien Ciampa (Cổ Chiêm Thành). Vì Cheng Ching thường được dùng trong tiếng Hán để gọi nước Chiêm Thành vào những thế kỷ đầu công nguyên nằm dọc theo bờ biển từ xứ Đàng Ngoài đến Nam kỳ. Các nhà truyền giáo gọi phần lãnh thổ đã bị người An Nam sáp nhập là Cochinchine, nhưng vẫn gọi phần đất còn giữ được độc lập của vương quốc cổ này là Ciampa.” (Luro E. 1878, tr. 21)
E. Aymonier trong một bài báo đăng trên tạp chí The Imperial and Asiatic Quarterly Review năm 1893 cũng nói là Cochinchine có nguồn gốc từ chữ Cổ Chiêm Thành: “Người miền Nam Trung Hoa cũng gọi Tchampa là Tchen Tching, hay Co-Tchen Tching, và người châu Âu biến thành Cochin China; và họ dùng tên này để gọi Tchampa trong một thời gian dài” (tr. 141). Năm 1903, Aymonier cũng nhắc lại quan điểm này trong một bài báo đăng trên tạp chí Journal Asiatique và nêu nghi vấn là chữ Co– trong Co-tchen-tching có nghĩa là Cổ (tr. 113).
A. Schreiner, tác giả quyển Abrégé de l’histoire d’Annam xuất bản năm 1906 tán thành giả thuyết của E. Luro, và cho biết thêm đó cũng là ý kiến của Trương Minh Ký :
“Ý kiến của Luro có nhiều điểm gần với thực tế hơn, nhất là khi ta đọc những lời giải thích sau đây của Trương-Minh Ký(7): Cổ Chiêm Thành có nghĩa là Ciampa cổ mà cũng có nghĩa là dân cư xưa của Ciampa. Thế mà theo phương ngữ Bắc Kinh, Chiêm Thành được đọc là Tchin-Sh’ềng và phương ngữ Quảng Đông đọc là Tchiêm-Shềng; kết hợp với chữ Cổ nó cho ra cách đọc giống như là Cochinchine.” (Schreiner A. 1906, tr. 66)
Tài liệu lịch sử cho chúng ta biết rằng người Bồ Đào Nha đầu tiên tháp tùng cùng thuyền buôn người Trung Hoa đi Quảng Châu vào năm 1513 tên là Jorge Alvares. Nhưng cũng giống như một số giả thuyết đã được giới thiệu bên trên, Luro đã không hề biết đến chữ Cochinchine xuất hiện trước khi người Bồ Đào Nha gặp người Trung Hoa (dưới dạng chính tả Chinacochim), và nhất là chữ này ban đầu được dùng để chỉ cả nước Đại Việt đầu thế kỷ XVI chứ không phải chỉ riêng vùng đất được sáp nhập từ Chiêm Thành. Vả lại, không có chứng cứ nào cho thấy Alvares tiếp nhận chữ Cochinchine từ hoa tiêu người Trung Hoa cả. Hơn nữa, những tài liệu Bồ Đào Nha ghi chép về chuyến đi này gọi nước ta là Canchimchyna, Cocam china, Cauchij China… Vì thế, chúng ta có thể nhận ra ngay rằng giả thuyết này đơn thuần chỉ dựa vào sự đồng dạng về âm thanh của chữ Cổ Chiêm Thành với chữ tiếng Pháp Cochinchine, chứ không đồng dạng với những chữ mà người Bồ Đào Nha đã dùng để chỉ nước ta vào thời ấy. Điều này có nghĩa rằng chỉ có người Pháp mới tìm thấy sự gần gũi giữa Cổ Chiêm Thành và tên mà họ dùng để gọi nước Đại Việt để nêu ra giả thuyết này mà thôi.
A. Launay trong quyển Histoire ancienne et moderne de l’Annam (1884) cũng có ý kiến tương tự, nhưng lại diễn giải khác hơn:
“Chữ Cochinchine bắt nguồn từ chữ Chen-chin [tức Chiêm Thành], là tên mà người Trung Hoa dùng để gọi nước Ciampa, và sau này có lẽ họ thêm vào chữ Cao, là chữ viết tắt của từ Cao-tchi (Giao-chỉ). Từ chữ Cao-chen-chin, người châu Âu biến thành Cochinchine (Launay A. 1884, tr. 3).
Cách giải thích này ngày nay không còn sức thuyết phục, vì có nhiều điều không còn phù hợp với sự hiểu biết ngày nay. Khi giải thích như thế, chắc hẳn là A. Launay đã không biết rằng trong suốt thế kỷ XVI nhiều tác giả châu Âu (đã liệt kê bên trên) đã dùng chữ này và các biến thể của nó để chỉ nước Đại Việt, lúc ấy chủ yếu vẫn là vùng Bắc bộ. Vì vậy tên gọi Cochinchine thời ấy không hề có liên quan gì đến Chiêm Thành. Chỉ từ năm 1615, khi nước ta đã hình thành hai xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong, thì Cochinchine mới được nhiều người phương Tây dùng để chỉ riêng xứ Đàng Trong (L. Aurousseau 1924). Hơn nữa, chưa bao giờ người Trung Hoa lại gọi phần lãnh thổ của nước Chiêm Thành bị sáp nhập vào Đại Việt là Giao Chiêm Thành cả.
Giả thuyết 8: Kochi có nghĩa là đầm lầy
I. Taylor trong quyển Names and their histories alphabetically arranged as a handbook of historical geography and topographical nomenclature xuất bản tại London năm 1896 cho rằng Cochin là một địa danh trên sông Cửu Long, được người Bồ Đào Nha gọi chệch thành Cochin-China để phân biệt với Cochin trên bờ biển Malabar (Ấn Độ). Theo tác giả, chữ này xuất phát từ chữ kochi, có nghĩa là ‘marsh’ (đầm lầy) (Taylor 1896, tr. 95). Nếu tác giả này biết rằng trong suốt thế kỷ XVI các tài liệu châu Âu dùng chữ Cochinchine để chỉ nước Đại Việt lúc ấy chủ yếu nằm ở phía Bắc sông Gianh, thì ông sẽ không nêu ra cách giải thích như thế, vì nó chỉ phù hợp với Nam kỳ lục tỉnh mà thôi.
Năm 1904, C. Gosselin cũng có cách giải thích tương tự như vậy:
“Đây là ý kiến của chúng tôi, cũng phù hợp với ý kiến của một số nhà thông thái An Nam chuyên nghiên cứu về lịch sử và từ nguyên, thì chữ Cochinchine có nguồn gốc như sau: khi người Bồ Đào Nha đến xây dựng cơ ngơi ở bờ biển Malabar (Ấn Độ), một trong những cơ sở của họ mang tên Cochin; sau này khi các nhà hàng hải gan dạ của họ đi đến vùng cửa sông Cửu Long, bờ biển có dáng vẻ giống như bên Cochin, và vì nó ở gần Trung Hoa nên họ đặt tên cho vùng đất mới này là “Cochin de Chine” hay “Cochinchina”, “Cochinchine” (Gosselin C. 1904, tr. 6)
Giả thuyết 9: từ tuyến giao thương Á-rập – Mã Lai – Trung Hoa
Giả thuyết này được L. Aurousseau phát triển trong bài viết “Sur le nom de Cochinchine” đăng trên tạp chí BEFEO năm 1924. Chẳng những tán thành ý kiến của Crawfurd về nguồn gốc Mã Lai của thành tố Cochin-, Aurousseau còn đi xa hơn nữa, khi hé lộ tuyến giao thương hàng hải giữa các dân tộc Á-rập, Mã Lai và Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước; nên khi tiếp xúc với tuyến giao thương này, người Bồ Đào Nha cũng học được tên của nước ta. Lập luận này có cơ sở vững chắc khi ta đối chiếu với các dữ liệu lịch sử: thật vậy, ngay từ đầu thế kỷ XV, người Bồ Đào Nha đã chuẩn bị mọi thứ có thể cho việc chinh phục đại dương, trong đó phải kể đến việc tiếp nhận kiến thức địa lý về phương Đông mà người Á-rập đã tích lũy được từ nhiều thế kỷ, như người dịch và giới thiệu nhật ký của Vasco de Gama đã viết:
“Việc khám phá ra đường biển đi về Ấn Độ không phải là kết quả của sự ngẩu nhiên như người ta thường nghĩ vì thiếu hiểu biết hoặc vì có ý dèm pha, mà là một kế hoạch dài hơi, được kiên trì theo đuổi suốt 80 năm, và hoàn thành với sự soi sáng của thế kỷ mà nghệ thuật hải hành đã có nhiều tiến bộ quan trọng, nhất là ở Bồ Đào Nha. Ngay từ năm 1415, hoàng tử Henri đã thành lập ở Sagres một học viện để dạy những kiến thức địa lý của người Á-rập, và là nơi người ta học cách sử dụng các dụng cụ hàng hải để tính toán thời gian và xác định vị trí tàu thuyền so với cực của trái đất.” (Morelet A. 1864, tr. iv-v)
Giả thuyết 10: Gọi theo người Tây Ban Nha và Ý
Trong quyển Việt sử tân biên (quyển 3, 1959), Phạm Văn Sơn viết như sau:
“Cochinchine là do chữ Caunchi-china của Tây Ban Nha và chữ Caoci-china chữ Ý mà ra, bắt nguồn từ chữ Kiaoche (Giao-chỉ) rồi thêm vào chữ China để khỏi lầm với Cochin ở Ấn Độ. Chữ Cochinchine được người Pháp dùng để chỉ xứ Nam kỳ. Bắt đầu từ thế kỷ XVII người Ấn đã dùng chữ này để chỉ các tỉnh từ Linh-Giang trở vào thuộc quyền chúa Nguyễn. Chữ Tonkin hoặc Tonquin (Đông kinh) dùng để chỉ đất thuộc quyền chúa Trịnh. Sau này chúa Nguyễn lấy được đất Chân Lạp là lục tỉnh Nam Việt ngày nay. Pháp gọi miền này là Basse-cochinchine.” (tr.188)
Ngoài chi tiết Kiaoche và China được nhiều người đề cập đến như là nguồn gốc của chữ Cochinchine, trong đoạn văn trên đây tác giả đã gán ghép nhiều chi tiết với nhau một cách ngẩu hứng, lại không ghi tài liệu tham khảo nào cả. Có tác giả nào cho rằng người Tây Ban Nha là những người đầu tiên đặt tên cho nước ta không, khi mà người Bồ Đào Nha lại là người đầu tiên đặt chân đến vùng Viễn Đông, trước Tây Ban Nha mười năm? Còn nước Ý thì không có chút liên quan gì với Đại Việt thời ấy cả, thì làm sao có thể đặt tên cho vùng đất này? Nhưng nếu thông tin của tác giả Phạm Văn Sơn là đúng sự thật, thì làm sao Tây Ban Nha và Ý lại có thể áp đặt cách gọi của họ đối với người Bồ Đào Nha, rồi Pháp, Anh, Hà Lan? Chưa hết, tại sao lại liên quan đến người Ấn trong tên gọi này? Từ Linh Giang trở vào là vùng đất cai quản của Nguyễn Hoàng từ năm 1558, trong khi chữ Cochinchine đã có trước đó hơn 50 năm. Những chệch choạc trên đây cho thấy giả thuyết này không thể đứng vững khi đối chiếu với các dữ kiện lịch sử đã được kiểm chứng.
Giả thuyết 11: Người Pháp gọi theo người Kampuchea
Lê Hương trong quyển Việt kiều ở Kampuchea (1971) có ghi lại một cách giải thích nguồn gốc chữ Cochinchine được lưu hành trên báo chí Kampuchea sau khi quốc vương Sihanouk bị đảo chánh năm 1970: “Tài liệu Cao Mên cho rằng Công Chúa Ngọc Vạn tên CÔ CHÍNH XINH nên vị Quốc Vương ấy mới đặt cho miền Nam và Pháp gọi là Cochinchine” (tr.10). Tác giả không cho biết “tài liệu Cao Mên” là tài liệu nào, nhưng chúng ta có thể phát hiện ngay lập tức là nó không phù hợp với những sự kiện lịch sử. Theo A. Leclère (1914, tr. 339), cuộc hôn nhân xảy ra vào năm 1620, còn cái tên Chinacochim hay Cochinchina xuất hiện từ đầu thế kỷ XVI, và đến năm 1575, học giả người Pháp A. Thevet là người đầu tiên chuyển sang tiếng Pháp là Cochinchine, lúc ấy được dùng để chỉ cả nước Đại Việt. Chỉ từ năm 1861 người Pháp mới dùng chữ Cochinchine để chỉ sáu tỉnh Nam kỳ. Vì vậy chúng ta có thể phán đoán mà không sợ nhầm lẫn đó là những lời truyền miệng được ai đó ghi lại, một loại từ nguyên học dân gian chỉ dựa trên sự gần giống nhau của tên gọi thuộc hai ngôn ngữ khác nhau, để gán bừa cho nguồn gốc của một từ ngữ nào đó.
Giả thuyết 12: gọi theo tên cửa sông Cổ Chiên
Trên Wikipedia có mục từ “Nam Kỳ” đề cập đến nguồn gốc chữ Cochinchine, có trích dẫn một tài liệu của Lý Đăng Thạnh tên là Lịch sử Đông Dương tập 7 – Nước Việt thời Nam – Bắc phân tranh ghi là xuất bản năm 1994. Mục từ này không cung cấp thêm chi tiết nào nữa về tài liệu trích dẫn này, và trên Google thì cũng không có bất cứ thông tin nào có liên quan đến sách này. Điều này có nghĩa là quyển sách nói trên chưa hề được nhà xuất bản nào công bố chính thức trong cộng đồng; có thể đó chỉ là tài liệu do cá nhân tự in ấn và phổ biến cho bạn bè mà thôi. Tuy nhiên, vì bài viết có nêu ra một giả thuyết mới về nguồn gốc chữ Cochinchine, nên chúng tôi vẫn cứ liệt kê ra đây để độc giả tham khảo, mà không câu nệ về nguồn gốc không rõ ràng của quyển sách nói trên.
“Theo Lý Đăng Thạnh, trong ‘Lịch sử Đông Dương tập 7 – Nước Việt thời Nam – Bắc phân tranh’ (1994), thì tên gọi Cochinchine bao gồm hai từ tố là ‘Cochin’ và ‘Chine’. Trong đó, ‘Cochin’ có nguồn gốc từ tên gọi sông Koh Chin (កោះជីន), là một đoạn sông của Thủy Chân Lạp thuộc hệ thống sông Mekong (sông Cửu Long), chảy qua nhiều cù lao (đảo nhỏ trong châu thổ) từ địa phận thành phố Vĩnh Long ngày nay, qua các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, rồi đổ ra biển Đông tại Cửa Koh Chin. Các nhà thám hiểm hàng hải châu Âu vào thế kỷ XV [sic!] khi đến vùng đất đồng bằng sông Cửu Long để mua nước ngọt và lương thực, thực phẩm, có thể đã lấy tên cửa sông Koh Chin và sông Koh Chin của dải đất có cư dân đông đúc nhất đồng bằng sông Cửu Long thời ấy để gọi tên chung cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long là: Vùng Cochin. Do sợ nhầm với thành phố cảng Ấn Độ Cochin, nên người phương Tây thêm hậu tố chine vào thành Cochinchine.”
Khi xây dựng giả thuyết này, chắc chắn là tác giả không hề biết rằng đầu tiên tên gọi Cochinchine đã được dùng không phải để chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long như đã nói bên trên. Hơn nữa, chẳng những tác giả không đưa ra chứng cứ nào để chứng minh Cochin chính là Koh Chin, mà còn suy diễn bất chấp tài liệu lịch sử: ngay từ thế kỷ XVI, nhiều tài liệu cho biết rằng người phương Tây gọi sông Cửu Long là sông Mecon (J. Barros 1563, F. Belle-Forest, A. Thevet 1575) hoặc sông Mecom (L. Camões 1572), hoặc sông Camboja (Linschoten 1595). Các bản đồ trong thế kỷ XVI như của Giacomo Gastaldi vẽ năm 1561 hay Gérard de Jode năm 1578 ghi tại vị trí Biển Hồ là Lago Camboja (Hồ Camboja), tại vùng cửa sông là Capo de Camboia (mũi Camboia). Các bản đồ thế kỷ XVIII như của Covens & Mortier (1760), R. Bonne (1770), Laurie Whittle (1802) vẫn còn ghi Riv. de Camboja (sông Camboja) hoặc Camboge. Qua thế kỷ XIX, bản đồ của Ambroise Tardieu năm 1819 vẫn còn ghi Bouches du fleuve de Camboge (các cửa sông Camboge), với 7 cửa nhưng chỉ ghi tên 2 cửa là Bassak và Canal d’Orient (kênh Đông). Còn bản đồ của John Walker tên Map of the Kingdoms of Siam and Cochin China vẽ năm 1828 nhằm minh họa cho quyển Journal of an Embassy from the Governor-General of India to the Courts of Siam and Cochin China của Crawfurd mới có tên khá đầy đủ các cửa sông Cửu Long (từ dưới lên): Cua Bassac, Cua tchavan, Cua Cotchiene, Cua Milong eu Bay Ngau, Cua Baray, tương ứng với các tên Cửa Ba Thắc, Cửa Cha Vang, Cửa Cổ Chiên, Bãi Ngao, Ba Ray trong An Nam họa đồ của Taberd vẽ năm 1838.
Indochine (Đông Dương)
Ngoài tên gọi 3 miền Việt Nam, người Pháp nói riêng và người ngoại quốc nói chung đã gọi 3 nước Đông Dương bằng cái tên Indochine. Đây là một trong những chữ được nhắc tới nhiều nhất trong các văn bản thời Pháp thuộc. Nguồn gốc của chữ này, nhà nghiên cứu Lê Nguyễn giải thích như sau:
Nhiều người Việt Nam hiểu không đúng về từ Đông Dương, thường cho rằng Đông Dương gồm ba nước Việt-Miên-Lào (theo cách gọi thời Pháp thuộc). Song trên thực tế, chữ Đông Dương được dịch ra từ tiếng Pháp Indo-Chine, trong đó Indo là Ấn Độ, Chine là Trung Hoa. Vì vậy theo định nghĩa của quyển từ điển Pháp Dictionnaire Universel Francophone, Đông Dương bao gồm năm nước và phần lãnh thổ nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa, đó là Miến Điện (Myanmar), Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và một phần giáp với đất liền của Malaysia.
Vào những thập niên đầu thời kỳ Pháp thuộc, nhiều tài liệu vẫn dịch từ Indo-Chine là “bán đảo Ấn-Hoa”; tờ tập san Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises được dịch là “tập san Hội Cổ học Ấn Hoa”. Từ năm 1889, năm thực thể chính trị nằm dưới sự cai trị hoặc bảo hộ của thực dân Pháp là Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ, Cambodge (Campuchia) và Lào được gọi chung là Đông Pháp (Indochine française: Đông Dương thuộc Pháp), đến năm 1900, còn có thêm Quảng Châu Loan, một lãnh thổ nằm trong tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Từ Đông Pháp còn rất phổ biến trong các sách Sử Địa soạn cho học sinh vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Năm 1923, tờ báo bằng tiếng Pháp Le Courrier Indochinois ra đời tại miền Bắc được dịch là Đông Pháp thời báo. Về sau, khi Liên bang Đông Dương hình thành thì từ Đông Dương trở nên phổ biến và nhiều người quên rằng từ này đúng nghĩa còn bao gồm cả Miến Điện, Thái Lan và một phần Malaysia nữa.
chuyenxua.net biên soạn